Đồng chí Vũ Hải Quân, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc ĐHQG-HCM phát biểu tại hội thảo. |
Sáng 21/4, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh phối hợp Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức Hội thảo "Tự chủ đại học trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học: Kết quả, bài học kinh nghiệm và những yêu cầu trong giai đoạn mới”.
Phát biểu đề dẫn tại hội thảo, đồng chí Vũ Hải Quân, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc ĐHQG-HCM cho biết: Các đại biểu sẽ tập trung trao đổi, làm rõ về tự chủ đại học như hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện cơ chế chính sách về tự chủ đại học, mô hình tự chủ đại học trên thế giới và Việt Nam, đánh giá đổi mới quản trị đại học sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW; thảo luận làm rõ về tự chủ tổ chức nhân sự, vai trò của Hội đồng trường; tự chủ về tài chính và các nguồn tài trợ; tự chủ về học thuật và quốc tế hóa giáo dục đại học trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và cạnh tranh…
Nhiều ý kiến của các đại biểu chia sẻ những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện tự chủ.
Theo TS Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó chủ nhiệm Ủy ban văn hóa, giáo dục của Quốc hội, việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ đã giúp cải thiện, đổi mới hệ thống GDĐH và đạt được một số kết quả tích cực; nhưng quan niệm và nội hàm, cách hiểu về tự chủ đại học ở Việt Nam vẫn còn có những nhầm lẫn đáng tiếc theo nghĩa tự chủ là “tự do” và “tự lo”, dẫn tới cách hiểu, cách tiếp cận và vận dụng vào thực tiễn không thống nhất.
Theo TS Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó chủ nhiệm ủy ban văn hóa, giáo dục của Quốc Hội nêu quan điểm tại hội thảo. |
Thực tế, tự chủ đại học có nơi, có lúc được hiểu và đánh đồng với việc tự chủ về tài chính. Các trường đại học muốn thực hiện tự chủ toàn diện sẽ phải cân nhắc, đánh đổi giữa tự chủ với việc ngừng cấp ngân sách nhà nước cho nhà trường cả về chi thường xuyên lẫn chi đầu tư. Đồng thời, cũng có quan điểm cho rằng, thực hiện tự chủ nghĩa là cơ sở GDĐH được hoàn toàn “tự do” quyết định mọi việc, và theo đó, phủ nhận vai trò của Nhà nước trong kiểm soát chất lượng, định hướng hoạt động của các trường.
Việc đa dạng hóa nguồn thu của các trường gặp nhiều rào cản bởi các quy định pháp luật liên quan.
Bà Hoa cũng cho rằng nguồn lực tài chính cho GDĐH còn nhiều khó khăn. Mức đầu tư cho GDĐH thời gian qua đã có nhiều cải thiện, tuy nhiên còn thấp so với trung bình trong trong khu vực và thế giới, chỉ đạt từ 4,33% đến 4,74% tổng chi ngân sách cho lĩnh vực GD&ĐT.
Bà Hoa nhấn mạnh, chủ trương, chính sách về đẩy mạnh tự chủ đại học bước đầu đã chứng minh tác dụng tích cực đối với sự phát triển của hệ thống GDĐH, thể hiện ở những kết quả nổi bật đạt được trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, để có thể phát huy được tối đa những lợi ích do tự chủ đại học mang lại, cần thiết phải xây dựng được một khung khổ pháp lý thuận lợi giúp cho việc thực hiện tự chủ đại học đi vào thực chất, hiệu quả, phát huy được sự chủ động, sáng tạo của cơ sở GDĐH trong thực hiện nhiệm vụ, sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho phát triển bền vững đất nước.
Việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để có thể phát huy hiệu quả thực chất của tự chủ đại học đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới cần có nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, cẩn trọng để có thể đề xuất những giải pháp mang tính khả thi cao.
GS.TSKH Bùi Văn Ga, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT nhìn nhận tuy Luật GDĐH đã quy định rất rõ quyền lực của Hội đồng trường nhưng trong thực tế quyền lực của Hội đồng trường còn rất hạn chế. |
Muốn vậy, TS Mai Hoa nêu rõ 5 kiến nghị, đó là: Thứ nhất, cần nghiên cứu xác định mô hình tự chủ đại học phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Thứ hai, phải đồng bộ và minh bạch hóa hệ thống quy phạm pháp luật về tự chủ đại học. Thứ ba, đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho giáo dục đại học. Thứ tư, xây dựng chính sách cải cách tiền lương và đẩy mạnh quá trình tự chủ trong các trường đại học để tạo quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục thu hút, giữ chân người tài, chuyên gia đầu ngành. Thứ năm, nâng cao năng lực thực hiện tự chủ; đổi mới quản trị đại học, thực hiện tự chủ đại học gắn với trách nhiệm giải trình.
GS.TSKH Bùi Văn Ga, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT nhìn nhận tuy Luật GDĐH đã quy định rất rõ quyền lực của Hội đồng trường nhưng trong thực tế quyền lực của Hội đồng trường còn rất hạn chế. Hoạt động ở nhiều trường còn mang tính hình thức; trách nhiệm giải trình và trách nhiệm xã hội rất mờ nhạt. Trong khi đó cơ quan chủ quản còn can thiệp vào các vấn đề tự chủ, đặc biệt là bộ máy quản lý, nhân sự và đầu tư của các cơ sở GDĐH.
Theo ông Bùi Văn Ga, trong khi trường đại học vẫn còn cơ quan chủ quản như hiện nay thì phương án tốt nhất là nhất thể hóa theo mô hình như các ĐHQG để tránh sự chồng lấn và xung đột trong vai trò của Hiệu trưởng, Chủ tịch Hội đồng trường và Bí thư Đảng ủy.
Nhắc đến việc nhiều trường đại học ở TP Hồ Chí Minh khuyết hiệu trưởng trong thời gian dài và chỉ có phó hiệu trưởng phụ trách, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng phải nghiên cứu lại cơ chế quy định việc bổ nhiệm hiệu trưởng, hội đồng trường, xem vướng ở đâu để có chủ trương, chính sách phù hợp. “Nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì các trường không thể thực hiện được các mục tiêu mà mình đề ra”, ông Bùi Văn Ga nhìn nhận.
Các đại biểu trao đổi tại hội thảo. |
Nêu thực tế triển khai tự chủ tại ĐHQG-HCM, PGS.TS Ngô Thị Phương Lan, Trưởng ban Tuyên giáo Đảng ủy ĐHQG-HCM, Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH&NV cho biết: ĐHQG-HCM đã hoàn thiện mô hình ĐHQG-HCM là mô hình đại học mẫu mực, đa ngành, đa lĩnh vực với cơ chế tự chủ và trách nhiệm giải trình trước xã hội với các đơn vị thành viên, trực thuộc được tái cơ cấu một cách hợp lý, hiệu quả giúp phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của ĐHQG-HCM với sự phát triển của địa phương, khu vực và cả nước.
Theo chiến lược phát triển, ĐHQG TPHCM sẽ là đô thị đại học đầu tiên, thế nhưng do vướng mắc công tác về các văn bản các luật nên hiện nay chưa ra được diện mạo quốc gia. Mặt khác, ở quy định về nguồn nhân lực, vừa rồi Nghị định 50 cũng tác động đến tâm tư, tình cảm của đội ngũ giáo sư, phó giáo sư.
Thêm vào đó, việc cắt chi thường xuyên ngay sau khi cơ sở giáo dục thực hiện tự chủ, ảnh hưởng lớn đến nguồn thu, dẫn đến việc hạn chế chi đầu tư cho các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Các vấn đề hợp tác công tư đối với các đơn vị tự chủ bao gồm chính sách, pháp lý, tài sản… cũng chưa được đồng bộ, rõ ràng, tạo hành lang pháp lý cho cơ sở giáo dục tự chủ có thể giải quyết được vấn đề tạo các nguồn thu hợp pháp, giảm sự lệ thuộc vào nguồn thu học phí.
Từ thực tế này, PGS-TS Phương Lan cho rằng, cần có sự đánh giá đầy đủ, toàn diện về những kết quả đạt được, những khó khăn vướng mắc của các cơ sở giáo dục khi thực hiện quyền tự chủ. Cần xây dựng lộ trình tự chủ của cả hệ thống giáo dục ĐH trong mối tương quan tương đối với hệ thống giáo dục ĐH trên thế giới.
PGS-TS Phương Lan cũng kiến nghị các quy định pháp lý, các chính sách quan trọng liên quan đến tự chủ cho cơ sở giáo dục ĐH nên được ban hành đầy đủ, đồng bộ; cần sớm sửa đổi những vấn đề còn bất cập để tạo tính thống nhất, nhất quán; tạo hành lang pháp lý rõ ràng để tránh chồng chéo, tạo thuận lợi cho các cơ sở giáo dục ĐH trong việc thực thi quyền tự chủ.
Ngoài ra, cần giao đồng bộ quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục ĐH, bao gồm tự chủ nguồn nhân lực; tự chủ trong tuyển sinh và quản lý sinh viên; tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục; tự chủ trong nghiên cứu và giảng dạy; quản lý hành chính và tài chính, quản lý và sử dụng ngân sách, các nguồn tài chính của trường…